Đại Dạo Tam Kỳ Phổ Dộ

header bright

Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu Tầm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu Tầm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2021

ĐẠI ĐẠO LUẬN: ĂN CHAY

 ĐẠI ĐẠO LUẬN: ĂN CHAY
     Tác giả:Đạo Trưởng Thiên Huyền Minh.
     Người đời nhứt là các nhà thông minh đều cho đồ chay không bổ bằng đồ mặn,người ăn chay không mập mạnh và đủ sức khỏe để làm việc bằng người ăn mặn và không sống lâu được.Nếu có lấy thuyết:các loài ăn cỏ như voi,trâu bò ra để làm bằng cớ thì các bậc ấy cho rằng đó là loài có bộ phận tiêu hoá khác hơn loài người nên chúng mới to lớn và mạnh.Nếu có lấy thuyết Bác Ái ( nên yêu loài vật chớ nên sát sanh)thì được trả lời:”Trời sanh vật để dưởng Nhơn” rồi cho lý luận như vậy là đúng nên cứ đua nhau tìm món ngon vật lạ nơi các loài thú để thỏa thích khẩu vị của mình.
     Nhưng theo thiểu kiến và sự kinh nghiệm của tôi thì tôi thấy có nhiều người tu đã trường chay đôi ba chục năm rồi,có người vẫn ăn Ngọ thời mà phần đông là người lao động nhưng vẫn mạnh dạn và làm việc nặng nề như thường.Lại nữa người ăn chay tuy không dùng thịt cá nhưng vẫn sống mạnh giỏi,còn người ăn mặn không thể nào ăn toàn thịt cá không đặng mà cần phải ăn những món ấy với cơm hay bánh mì cùng rau cải và trái cây.Vậy thì chất nào hoàn toàn bổ,lại nữa bắt hai con thú : một con ăn toàn đồ chay =lúa,
đậu,cỏ(con bò,bồ câu,cu đất..) và một con thú ăn thịt như con diều,con ó đem làm thịt để ăn chúng thì ta sẽ thấy thịt của con ó sẽ không ngon(tanh ),tất nhiên không bổ và ngon bằng thịt bò,bồ câu.Đây là bằng chứng chỉ rằng đồ chay có nhiều chất bổ và ngon,nên khi vào mình con thú nó hoá ra chất làm cho thịt con vật đó có nhiều chất bổ và ngon hơn,nhưng đến khi thịt con thú ấy sang qua thịt con thú khác thì nó bớt đi chất bổ và ngon hơn của đồ chay,do vậy thịt con thú sau phải tanh,không ngon,tất nhiên ít bổ.
          Lại đến khi ta bị đau thì cấm dùng thịt cá,mà buộc phải ăn cháo với đường hoặc muối mà thôi.Những thuốc uống cùng thuốc tiêm để trị bệnh toàn lấy trong chất cây mà ra, như vậy có phải đồ chay bổ hơn đồ mặn không. Nếu nói thịt cá bổ hơn đồ chay sao lúc đau không ép chất thịt cá lấy mà uống hay tiêm cho mau hết bịnh mà chỉ dùng thịt cá khi mạnh, có người đau vừa bớt,tới cháo thịt cũng không dám ăn vì sợ trúng bịnh lại là tại sao? Như vậy thịt cá có bổ hơn rau cải đậu chỗ nào đâu? Dùng chất cây để trị bịnh ,
ăn chay lúc đau mới khá,khi mạnh thì mỗi bửa ăn đều dùng đồ chay trộn với thịt cá mới sống đặng rồi cho là đồ mặn bổ hơn đồ chay, có phải mình mâu thuẫn lấy mình không? Còn nói trong đồ chay thiếu chất bổ,phải ăn thêm thịt cá mới đủ chất bổ mới sống được vậy tại sao loài khỉ có bộ phận tiêu hoá và hình tích rất giống người nhưng nó có ăn thịt cá đâu mà nó vẫn mạnh và sống dai,trâu bò,voi ,lạc đà,ngựa nai .v..v..chỉ nhờ ăn cỏ mà được lớn con và làm công việc rất nặng thì há không phải là cây cỏ rau đậu có đủ chất bổ,nếu nói không hơn thì cũng bằng với thịt cá. Lại nữa,các loài ăn cỏ thì hiền từ, các loài ăn thịt thì hung dữ, như vậy có phải đồ chay bổ cho xác thân mà còn bổ cho tánh tình tức là linh hồn nữa.Nên con người muốn hiền từ,
người muốn tu cần phải ăn chay hơn ăn mặn vì những lý do sau đây :
     1/-VÌ Lòng Bác Ái : Tất cả loài vật cùng người đều do Tạo Hoá sinh ra, chúng nó cũng có linh hồn có trí khôn,cũng biết đau đớn như người,tức nhiên loài vật là Em của ta,lẽ nào anh mà ăn thịt em cho đành ,
chúng nó cũng có tình chồng vợ,nghĩa cha con,
cũng đau buồn như ta khi bị phân rẻ.
     2/- Vì Sự Tấn Hoá của loài vật: Loài vật sinh ra là để tấn hoá cũng như loài người,chúng nó cũng ham sống sợ chết,biết lo chạy trốn khi loài người ỷ sức mạnh rượt bắt giết chúng nó và kêu la khi sắp chết, nên người có lòng hiền từ không đành lòng ăn. Thầy Mạnh Tử cũng có nói “thấy con vật kêu la ta không đành ăn nó”.Đó là câu mà Thánh nhơn ở Đạo Nho khuyên ta phải ăn chay vậy.
Con vật nào sống lâu cũng khôn ngoan hơn lúc nhỏ, đó là sự tấn hoá của linh hồn nó và kiếp sau của nó sẽ tấn hoá hơn kiếp hiện tại.
     3/- Vì Muốn Xa Lánh Sự Dâm Dục: Loài vật sinh ra là nhờ sự giao cấu của giống đực và cái nên thịt của chúng chứa toàn sự kích dục.Người ăn vào chất thịt đó để tạo thành máu thịt của người thì khiến người ưa sự dâm dục, mà dâm dục nhiều thì hại cho sức khỏe làm cho người mau tiều tụy, đây là điều đố kỵ cho người tu, vì người tu cần phải tuyệt dục (lý tuyệt dục sẽ nói sau) và vì lý nầy mà người trường chay không uống sửa và ăn trứng của loài gia cầm.
     4/-Vì Muốn Bổ Dưởng Linh Hồn hơn Xác Thịt: Linh Hồn là tâm tánh của con người,nó vốn là linh quang của Đức Chúa Trời do chất Tiên Thiên Khí sinh ra nên vô hình,xác thịt do Hậu Thiên Khí sinh ra nên thuộc hửu hình. Còn loại rau cải chỉ hút tiên thiên khí của Trời Đất mà hoá sanh và lớn lên không vì sự giao cấu mà sinh sản,nên người ăn nó thì ít thích sự dâm dục và được bổ về phía Tiên Thiên (linh hồn) nhiều hơn phía Hậu Thiên (xác thịt). Lại tiên thiên thì rất cần cho người tu về bực Tối Thượng Thừa (sẽ có bài nói rõ về chỗ này).
     5/- Vì Lý Tự Nhiên của Bộ Tiêu Hoá: Loài người có bộ tiêu hoá từ móng tới răng cùng ngủ tạng đều giống của con khỉ là loài ăn trái cây (chớ không giống bộ tiêu hoá của loài ăn thịt như cọp,chó,mèo và có móng nhọn,răng nhọn). Vậy theo lý tự nhiên con người là giống ăn rau cải cây trái chứ không phải là giống ăn thịt cá,nhưng tại người tập nhiểm ăn đồ thịt cá từ nhỏ cho đến lớn nên quen miệng rồi cho thịt cá là bổ,là ngon.Cũng như người bắt khỉ rừng về nuôi,tập cho chúng ăn cơm cá,hút á phiện sau đó nó quen và ghiền vậy, chứ nếu ai thử ăn rau cải chừng ít tháng rồi ăn thịt cá trở lại sẽ thấy chúng có mùi hôi tanh và nếu muốn ăn mặn lại thì phải tập ăn ít bửa sau mới biết ngon
, hết tanh.
     6/- Còn Theo Lý Thiên Nhiên:( khoản nầy chỉ dành riêng cho bực Tối Thượng Thừa): Hồi đời Thượng Cổ khi Trời Đất mới sanh ra loài người thì con người chỉ biết lo tu nên không ăn uống,
nhưng lần lần vì lòng ham muốn vật chất khởi động con người mới biết đói và thèm ăn,lúc đầu chỉ ăn hoa quả sau ăn ngủ cốc và rau cải rồi tới ăn thịt thú cầm và phải chịu sa đọa khổ cực nhiều điều khó trở về căn bổn nên người tu muốn trở lại cựu ngôi thì phải đi trở ngược lại là bắt đầu không ăn mặn,chỉ ăn chay,sau giảm lần đến ăn hoa quả riết lần tới không còn ăn gì nhưng phải để tự bộ phận cơ thể giảm lấy nó chứ người mới tu không nên ép xác mà phải hao tổn và chết mất (Phật giáo có pháp nhịn đói uống nước tên là Pháp Vô Uý nhịn đói mỗi lần 7ngày.Ba tôi áp dụng pháp nầy lần thứ nhất là 9 ngày ,
lần thứ hai 18 ngày ,lần thứ ba 36 ngày.Bạn đạo của ba tôi mỗi lần nhịn đói uống nước đúng 100 ngày và vẫn làm việc đồng áng như mọi người).
     Bộ phận con người cũng như bộ máy xe hơi,đồ ăn tức là dầu xăng,nếu xe chạy nhiều thì tốn dầu xăng nhiều, xe chạy ít thì tốn ít dầu, cũng như người hoạt động (kẻ lao động) thì phải ăn nhiều,người làm việc ít thì ăn ít, ban đêm ngủ thì ít đói hơn ban ngày,còn đêm nào thức làm việc thì sẽ thấy đói và cần ăn nếu không sẽ thấy xót ruột khó chịu.Còn chiếc xe không chạy mà được lau chùi thường thì xe sẽ lâu hư lại khỏi tốn dầu xăng hàng ngày. Người Tu cũng vậy, nếu được ngồi một chỗ thiệt tịnh định thì như xe hơi không chạy khỏi hao máu huyết. Nếu biết công phu nội công tứ thời lau chùi ngũ tạng lục phủ cho được tinh vi thì cũng như bộ phận xe hơi được lau chùi hằng ngày thì không hư,nếu biết thêm rút Tiên Thiên Khí của Trời mà bồi bổ cho thân mình cũng như loài cây vậy thì cần gì phải ăn uống cho nhiều.Đến chừng tu được có nước Bát Nhả Ba La Mật mà người thường gọi là nước Cam Lồ của Phật Quan Âm thì người tu sẽ nhờ nước ấy để bồi bổ cho ngũ tạng và làm cho các vi tế bào trong thân người đều được tươi nhuận mà ta thường nghe là nước Cam Lồ để cứu chúng sanh
( chúng sanh tức là các vi tế bào).Đến lúc nầy thì người tu không còn biết đói nên khỏi ăn mà vẫn mập mạp
( đoạn nầy có nhiều đoạn bí yếu khó giải rành Đặng).
     Có người than rằng:”ăn chay thường xót ruột lắm nên không ăn Đặng” đó là tại sao? Ấy là tại thịt cá lâu tiêu hơn đồ chay nên bao tử của người ăn mặn khi có đồ ăn phải nhồi ít nhứt là 3 giờ thì đồ ăn mới tiêu hết,bây giờ ăn đồ chay vào thì chừng 2 giờ trở lại là tiêu hoá hết (vì đồ chay mau tiêu hơn thịt cá) nhưng bao tử nhồi thêm cả giờ nữa (vì
bao tử chưa quen sự thay đổi) thì tất nhiên ta thấy xót ruột và khó chịu,chảy nước dãi vì nước vị toan trong bao tử còn dư nhiều,rồi lại thêm ý thèm đồ mặn xen vào nữa, làm cho ta để ý thêm nhiều vào bộ tiêu hoá nên thấy khó chịu nhiều,
chớ nếu ăn chay quen rồi bộ tiêu hoá sẽ điều hoà trở lại theo sự dễ tiêu của đồ chay thì ta sẽ không còn thấy xót ruột,khó chịu nữa.Vậy người mới ăn chay cần phải ăn nhiều bữa,hể hơi đói thì ăn thêm sẽ hết xót ruột ngay (ăn bánh,trái cây).Khi mới ăn chay trường có sự thay đổi trong cơ thể,bớt chất Hậu Thiên thêm chất Tiên Thiên nên xác thân trong mấy tháng đầu có phần tiều tụy hơi mét xanh (có người khỏi bị sự nầy)nhưng khi ăn quen rồi chừng 3 hay 4 tháng sắp lên sẽ thấy lợi sức trở lại và nhiều khi đỏ da thắm thịt mập mạp hơn hồi ăn mặn cùng ít bịnh hơn,Nếu ăn được cơm gạo lức,gạo vo sơ nấu ăn ngọt và bổ hơn vo gạo (gạo phải nấu hai lần)hay uống nước cám rang thì sẽ khỏi sợ mất sức vì chất cám rất bổ.
     Ăn Chay muốn Khỏi Đau và được Điều Hoà trong Cơ Thể thì cần biết sự Thạnh Suy của Ngũ Tạng và Cơ Thể theo thời tiết trong năm,cùng sự sanh khắc của ngũ hành và ngũ tạng.
     Theo Lý Đạo nghĩa là theo lý thiên nhiên thì:Âm Dương hoà hiệp sanh ngũ khí là vàng-xanh-trắng-đỏ-đen; ngũ khí sanh ngũ hành là kim-mộc-thủy-hỏa-thổ;
ngũ hành sanh ngũ tạng là Tỳ(thổ),thận(thủy)tâm (hỏa),phế(Kim),cang( mộc)
Ngũ Tạng lại sanh Ngũ Khí để hiệp lại hoá Tinh và Huyết để bồi bổ và nuôi dưỡng cơ thể con người.
Nên hể ngũ tạng mạnh thì cơ thể mạnh,ngũ tạng suy thì cơ thể suy,đồ ăn vào là để bồi bổ cho ngũ tạng trước nhứt,vậy người tu cần phải biết những món ăn nào để bổ cho tạng nào và còn phải biết sự sanh khắc của mỗi tạng theo mùa của Trời Đất cho khỏi đau như:
     1/-Mùa Xuân thuộc Mộc
tạng Cang,Đởm vượng thì tạng Tỳ-Vị suy vì Mộc khắc Thổ,những chất có vị Chua và màu Xanh phải ăn ít vì chất nầy bổ Cang và Đởm
(gần,mật). Nên ăn vị Ngọt và màu Vàng nhiều vì chất nầy bổ Tỳ và Vị đặng cho quân bình ngũ tạng thì khỏi bịnh.
     2/-Mùa Hạ thuộc Hoả tạng TÂM,Tiểu trường vượng thì tạng Phế với Đại trường suy vì Hoả khắc Kim
, nên vị Đắng và màu Đỏ phải ăn ít vì chất nầy bổ Tâm và Tiểu trường.Nên ăn vị cay và màu trắng nhiều vì các chất nầy bổ Phế và Đại trường đặng cho tạng Tâm và Phế được hoà bình. Mùa Hạ thì Thổ cũng vượng nên Tỳ-Vị cũng vượng thì Thận cùng Bàng quang suy vì Thổ khắc Thuỷ,nên vị Ngọt và màu Vàng ăn ít vì chất nầy bổ Tỳ Vị, nên ăn chất Mặn.màu Đen nhiều vì chất nầy bổ Thận đặng cho Tỳ và Thận được hoà bình. Còn mỗi mùa Thổ vượng 18 ngày,chia ra ba tháng thì mỗi tháng có 6 ngày Kỷ Thổ thì những ngày nầy vị ngọt và màu vàng ăn ít, vị mặn và màu đen ăn nhiều.
     3/- Mùa Thu thuộc KIM,
tạng Phế và Đại trường vượng thì Cang và Đởm suy vì Kim khắc Mộc,vị Cay và Trắng ăn ít vì chất nầy bổ phế,phải ăn nhiều vị Chua và màu Xanh nhiều để bổ Cang.
     4/- Mùa Đông thuộc Thuỷ, tạng Thận và Bàng quang vượng,tạng Tâm và Tiểu trường suy vì Thuỷ khắc Hoả,vị mặn và màu Đen ăn ít vì chất nầy bổ cho Thận,nên ăn chất có vị Đắng,màu đỏ nhiều cho bổ Tâm đặng cho Tâm và Thận được hoà bình.
     Đây là nói về người có ngũ tạng còn mạnh,còn những người thèm ăn ngọt hoặc chưa cũng còn tuỳ theo sự thạnh suy của mỗi tạng.
            TRƯỜNG THIÊN.
Người ở Thế mãng lo ăn mặc,
Chịu đoạ đầy chôn chặt biển mê;
Khó mong cựu vị hồi về,
Cũng vì thịt cá nặng nề trược bao.
Người với Vật đồng nhau sanh trưởng,
Cùng một Cha nuôi dưỡng lớn khôn;
Cũng đồng có xác có hồn,
Cũng đồng Tạo Hoá sanh tồn dưỡng nuôi.
Vật cũng biết buồn vui đau khổ,
Cũng vợ chồng cũng chỗ cha con;
Thú cầm cũng muốn sống còn,
Để mà tấn hoá,để bòn cội căn.
Sao người nở giết phăng ăn thịt,
Sao anh đành làm thịt em khờ;
Khiến nên gặp cảnh bất ngờ
Trả vay lộn kiếp,bao giờ mản căn.
Ăn thịt thú khó năng ngộ tánh,
Bị Hậu Thiên khó lánh biển Trần;
Thú cầm dâm dục lần khân,
Khiến người ăn nó tham,
sân,dục tình.
Người tu cần xét mình cho kỹ,
Ráng bền lòng theo lý đạo mầu;
Trường chay giữ đặng bớt sầu,
Bớt câu ân ái,bớt rầu tinh suy.
Bởi thảo mộc không vì vật chất,
Rút Tiên Thiên làm vật nuôi mình;
Ăn vào được bổ hồn linh,
Vì tiên thiên khí hoá sanh tinh thần.
Người thiệt bổn về phần ăn Lạt,
Móng cùng răng giống tạc khỉ nhiều;
Sau vì ham muốn đâm liều,
Ỷ mình trí hoá,bày điều nọ kia.
Tánh năng tập khó lìa khi mến,
Thịt ăn quen rù quến thói tà
Mê Trần đành bỏ Cha già,
Nếu không cải hoá khó mà về sau.
Tu cần phải tương rau hẩm hút,
Mể cốc dùng lánh đục tầm trong;
Ngũ hành sanh khắc nằm lòng,
Bốn mùa ngũ tạng phải phòng món ăn.
Xuân thuộc Mộc nên Cang Đởm khởi,
Cử món chua sợ bởi hại Tỳ;
Vật màu xanh cũng bớt đi,
Ăn nhiều chất ngọt bổ ni tạng Tỳ.
Mộc khắc Thổ theo thì lý Chánh,
Dùng màu vàng để tránh phạt Tỳ;
Hạ thì Hoả vượng cung Ly,
Đại trường cùng Phế phải suy ít nhiều.
Vật cay  trắng dùng nhiều bổ Phổi,
Cử Đắng-Hồng khỏi lỗi tạng Tâm.
Hạ thêm vượng tạng thứ năm,
Làm cho Thận thủy suy thâm ít nhiều.
Ngọt và Vàng ăn nhiều có hại,
Mặn,màu Đen dùng lại rất nên;
Thu sang Phế lại vượng lên,
Đởm Cang phải chịu lệch chênh ít nhiều.
Kim khắc Mộc là điều nên biết,
Trắng và Cay dùng thiểu đôi phần;
Xanh chua thì phải ân cần,
Khỏi lo cang đởm chịu phần khắc sanh.
Qua mùa Đông,Tâm đành chịu lép,
Cùng Tiểu trường bị ép suy dần;
Bởi vì Thận vượng đôi phần,
Màu Đen chất Mặn phải cần ít ăn.
Muốn bổ Tâm dùng tăng chất Đỏ,
Đắng ăn thêm hòng có bổ tim;
Như vầy khỏi sợ Hoả chìm,
Bốn mùa ngũ tạng khỏi điềm hưng vong.
Chất đại bổ tìm trong ngũ cốc,
Với ngũ màu lược lọc Tiên Thiên;
Giúp nuôi kẻ sĩ nhà thiền,
Khỏi lo bịnh hoạn vì duyên Chay Trường.
                    THI.
Chay trường đại bổ bởi tiên thiên,
Ngũ cốc tương chao giữ mối giềng.
Thịt cá tôm cua thêm khổ Hải,
Muối dưa lê-hoát(rau cải)
dưởng hồn nhiên.
Trả vay nợ thế cho tròn đủ,
Luyện đạo nhờ tinh,khí hạo nhiên;
Khổ cực kiếp nầy sau khỏi quả,
Trở về Tiên cảnh hưởng thiêng liêng.     C.H.T.

Share:

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2020

Đạo Trưởng Chí Tín cuộc đời tu thân hành đạo

TỰ THUẬT CUỘC ĐỜI TU THÂN HÀNH ĐẠO CỦA CHÍ TÍN

I. CÁ NHÂN VÀ LIÊN HỆ GIA ĐÌNH
Sanh năm Mậu Ngọ (10-10-1918) tại thành phố Gò Công, nay thuộc Tiền Giang, trong gia đình tiểu thương nghèo.
Tộc danh là Lê Văn Bá. Thánh danh là Chí Tín.
Phụ mẫu: Cha là Lê Văn Còn, nguyên Giáo sư Phái Thượng Ban Chỉnh Đạo thuộc Hội Thánh Bến Tre của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (đạo Cao Đài), nguyên đầu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, Gia Định, nay thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Ông đắc quả Minh Đức Đạo Nhơn, thường giáng cơ dạy đạo trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo lý Cao Đài - nơi hai con Đạt Minh và Chí Tín hành đạo.
Mẹ là Phạm Thị Huỳnh, chức việc trong Ban cai quản Nữ phái của Thánh thất Bình Hòa, Gia Định.
Bào huynh là Lê Văn Non, Thánh danh Đạt Minh, nguyên giáo hữu họ Đạo Thánh Thất Bình Hòa, nhơn viên của Cơ Quan PTGLĐĐ, lãnh chức vụ từ Ngoại Giao Vụ, Nội Chánh Vụ, Tổng Thơ Ký đến ngày liễu đạo là Tham Lý Minh Đạo (trong tổ chức Cơ Quan PTGL Cao Đài Giáo Việt Nam từ buổi sơ khai cùng với Bào đệ là Chí Tín), ngày 13-8 Ất Sửu, 1985.
Hôn phối là Phạm Thị Mai, Thánh danh Bạch Đức, nhơn viên Ban chấp hành Nữ Chung Hòa, thuộc hệ thống Cơ Quan PTGL Đại Đạo.
Có 3 con, hai trai, một gái.

II. ĐỜI NIÊN THIẾU
Thuở nhỏ học trường tiểu học thành phố Gò Công. Đến năm 1932, theo cha mẹ di cư lên Bà Chiểu, Gia Định, vì nạn kinh tế khủng hoảng nên gặp khó khăn sanh sống ở quê nhà. Lên đây tiếp tục học trường tiểu học bà Chiểu cho đến khi thi đậu vào trường Trung học Pétrus Ký ở Chợ Quán (Saigon). Tốt nghiệp bằng trung học Pháp Việt (1938). Vì gia cảnh nên nghỉ học để thi vào làm thơ ký xưởng Ba Son (Arsenal) và sau 3 năm, thi đổ vào Sở thương chánh, được bổ về tỉnh Biên Hòa. Sau một năm, vì chiến tranh Pháp Đức và Nhật chiếm Đông Dương nên bỏ quan trường lên Đà Lạt làm quản lý bút toán một nhà máy cưa gỗ thông của hãng Đan Mạch vừa xây dựng vào đầu năm 1942. Đến 1946 trở lại Saigon buôn bán và làm việc hãng Đan Mạch ở Saigon chuyên xuất nhập cảng và đại lý các tàu biển ngoại quốc.
III. ĐỜI TU HÀNH THỜI NIÊN THIẾU
Lên 8 tuổi đã theo cha vào chùa Tịnh độ Phật giáo cư sĩ tại thành phố Gò Công để học tụng kinh Di Đà, Hồng Danh, Vu Lan, và Đại Bi. Vì tánh hay ngỗ nghịch, mỗi lần nghỉ hè, mẹ bắt theo đi viếng chùa chiền ở Bà Rịa, trên vùng núi non tĩnh mịch và được ký bán cho Hòa thượng Thiên Thai, danh sư nổi tiếng thời bấy giờ. Khi di cư lên Gia Định, cùng gia đình nhập môn vào đạo Cao Đài, tại Thánh thất Phú Nhuận vào tháng 3 năm 1933. Sau đó được vào học lớp Giáo huấn Đồng nhi lễ sĩ sau khi Thánh thất Bình Hòa dựng xong ở Bình Hòa xã, Gia Định.
Đi tìm Đạo trên núi Điện Bà Tây Ninh
Năm 1937, đang học năm thứ 4 trường Pétrus Ký để thi bằng Thành Chung, phát tâm xuất gia đi tìm minh sư trên núi non để học Đạo hầu tìm phương pháp độ đời giải khổ cho nhơn loại thoát khỏi vòng tứ khổ, mặc dầu đã nhập môn và học hết khóa huấn luyện Đồng Nhi lễ sĩ ở Thánh thất Bình Hòa rồi mà chưa thỏa mãn tham vọng xuất gia tìm minh sư học đạo giải thoát chớ không có mộng cầu làm Tiên Phật riêng tư. Trước để tìm học bào chế thuốc men trị bịnh, nghiên cứu cây cỏ hoa lá trong rừng của nước nhà hầu bào chế một thức ăn như thuốc viên bổ multivitamines mà hồi đó chưa có sản xuất được, mục đích là giúp con người khỏi khổ sở vật chất vì lo miếng ăn hằng ngày, chớ quần áo và chỗ ở có tạm bợ dễ dàng hơn là thức ăn rất cần thiết cho sự sống, nhưng không chủ trương theo pháp môn nhịn đói (vô úy) thời đó vì làm mất sức khỏe người tu và không được sự tinh tấn sáng suốt của tâm linh. Vào ngày 26 tháng Chạp, giữa đêm khuya lén mở cửa thoát ra khỏi nhà để đi lên núi Điện Bà Tây Ninh vì không dám cho gia đình hay sợ bị cản trở.
Trước đó, cùng với Bào huynh Đạt Minh tập thủ cơ, nhưng vì thiếu bộ phận cầu cơ và chưa có kinh nghiệm nên không có kết quả mỹ mãn. Tuy nhiên có hai đấng thiêng liêng nhập xác cho anh Đạt Minh để xuất khẩu dạy đạo lý, có khi dùng Pháp văn cho dễ hiểu hơn Hán văn. Ngài dạy cách kiểm điểm từ tư tưởng, lời nói và hành vi hằng ngày và ghi vào sổ nhật ký, giống như làm tờ vô ngã kiểm của CQPTGL vậy. Và hằng tuần Ngài cho điểm sau khi kiểm điểm. Sự trốn đi núi, tôi cũng dấu không cho anh Đạt Minh hay. Trước khi đi, tôi vào làm lễ trước Thiên Bàn và được chơn linh của một đấng thiêng liêng nhập vào, đốt một bó nhang và chạy ra cửa, băng qua các vườn tược nhà cửa từ Bà Chiểu lên Chí Hòa, Hòa Hưng giữa đêm khuya chó sủa ran, tay họa phù chúng liền im bặt. Việc đăng sơn, cũng đã dự trù trước, mỗi đêm tập lên Thánh thất Bình Hòa chạy xung quanh bốn gốc, tập cho nhẹ nhàng để băng rừng leo núi khi cần. Điều lạ lùng là trong túi không có dính một đồng xu nào mà nói làm sao xe đò chở đi không lấy tiền lại còn dấu không cho ai kiếm thấy mình nữa. Lên đến chơn núi, lại bỏ guốc đi chơn không lên tới chùa Trung, vào chùa giảng đạo thao thao bất tuyệt (thiêng liêng xuất khẩu lúc đó) được cho ăn cơm no, sau đó nhờ người chỉ đường lên đảnh núi, mặc dầu mặt trời vừa lặn không còn ánh sáng, cũng một hai đòi đi liền không ai cản được. Nhảy phóc lên các hòn đá, trèo leo lên các cây tre lồ ồ, nhảy nhót cành này qua cành kia như con vượn, mặc cho gai cào rách áo chảy máu nhưng cũng vẫn tuông rừng leo núi cho đến khuya thì lên đến chót đỉnh, lúc đó thiện nam cũng hành hương đông và đốt lửa sáng thấy từng đoàn năm bảy người. Tôi liền vào quì lạy lễ Phật và ngồi tham thiền một lúc lâu. Bỗng trí não bừng sáng lên như sau một cơn mê man vừa tỉnh giấc. Ơn Trên dạy phải hồi gia lập tức vì đi không cho gia đình hay, cha mẹ già khóc than và anh chị chạy kiếm tứ tung, làm như vậy đắc tội và hơn nữa nhơn đạo chưa xong làm sao có thể xuất gia sớm quá được. (Việc này khi vào hành đạo tại Cơ Quan, Đức Lê Đại Tiên có nhắc lại chuyện cũ để khuyến khích việc hành đạo). Ra ngoài chùa, được chư Phật tử kể lại mấy ngày trước có hai cậu đi tìm đạo lạc vào rừng bị cọp ăn thịt, bỏ xương phơi trắng giữa rừng, mà dợn tóc gáy hú hồn cho mình. Thầm cảm ơn Thầy Mẹ đã hộ trì cho mình được thoát nạn. Sáng tinh sương, đổ dốc núi theo đường mòn, chớ không dám đi băng rừng trèo núi như khi lên vì đã tỉnh táo rồi. Thế mà, gần đến chân núi lại bị lạc vào giữa rừng rậm đến một ngã ba không biết phải ra lối nào, la rát cổ họng mà không thấy một tiếng đáp lại. Tâm thần bắt đầu xao xuyến ám ảnh sợ bị cọp ăn phơi xương như đã nghe thuật lại. May sao, còn chút sáng suốt chạy theo dòng suối, định bụng dầu thế nào cũng có lối ra sông. Đi một đổi lâu thì thấy một cánh đồng lúa đã gặt lố dạng. Mừng quá chạy riết đến một chòi canh của một ông già giữ vườn dưa hấu trồng để bán Tết. Nghe mình thuật câu chuyện, ông ấy dọn cơm nước cho ăn no nê. Hỏi đường về ra bến xe đò, thì được biết mình đang ở phía sau núi, bên kia của bến xe đi xa lắm, sợ lạc nữa, mới khẩn khoản nhờ ông cho người đưa dùm. Ông tặng cho hai trái dưa hấu to để mang về ăn Tết. Ngộ là không có tiền mà vào tiệm ăn hủ tíu nằm dưới chân núi, chủ tiệm hoan hỉ không lấy một xu vì lúc đó có phong trào thương mến các học sinh hiền hậu, nhất là có chí lên núi học đạo. Vì có phong trào hát tuồng Phật Tổ xuất gia của gánh hát cải lương Tân Thinh nên ảnh hưởng rất lan tràn sâu đậm trong các từng lớp dân gian.
Về gần tới nhà ở sâu trong xóm, nên đi bộ hai tay ôm hai trái dưa lửng thửng về nhà trong lúc chiều trời sẫm tối, trong nhà thấy bóng chạy túa ra, người chị hai ôm chầm em vào lòng mà khóc lên nức nở, mừng mừng tủi tủi vì tưởng đâu em mình đã chết theo lời đồn đãi nên hiện hình về. Cả xóm tựu lại mừng rỡ, vì ai ai cũng thương mến mình. Sau đó, gia đình ngăn cản đến Thánh thất hành đạo mà bắt ở nhà lo học hành và tu ở nhà cũng được, sau thành đạt sẽ tính tới.
IV. GIA NHẬP CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ CAO ĐÀI
Nhờ Bào huynh Đạt Minh giới thiệu đi hầu đàn cơ tại nhà đạo trưởng Huỳnh Chơn ở Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng), lẽ ra nếu không có vụ trốn lên núi, thì đã được anh rủ đi hầu đàn ở Minh Tân Khánh Hội trước, mà hiểu đạo rộng hơn trước khi vào Cơ Quan. Sau đó một vài đàn cơ, mình thấy đường lối chánh chơn của anh chị em đạo tâm, nên nhận chức thủ bổn cho Cơ Quan, vì mình đang làm giám đốc một công ty lớn ở Đô Thành Sài Gòn và nhơn viên phòng Thương mại kỹ nghệ nên dĩ nhiên được tin cậy. Sau đó có Đức Lê Đại Tiên nhắc vụ mình đi núi tìm đạo khi trước và khuyên mình hãy hợp tác hành đạo vì đúng với tâm nguyện và cũng là Thánh ý cơ duyên của hiền đệ. Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch có cho một bài thi tại Thánh tịnh Ngọc Minh Đài năm 1965.
“Có kẻ buôn hài đến chợ trưa,
Kề bên bến giác cậy ông đưa;
Ông đưa, ông dặn này ghi nhớ,
Hài của người buôn lắm kẻ vừa.”
Ngài khuyên hãy hợp tác hành đạo với Cơ Quan mặc dầu Ơn Trên chưa chỉ định nhưng cũng là Thánh Ý và dặn hãy cẩn thận đừng phí ngày giờ và tiền bạc không đúng lúc và không nhằm chỗ (có lẽ Ngài muốn nhắc câu "hài của người buôn lắm kẻ vừa") vì bản tánh cởi mở rộng rãi vui vẻ hay làm vừa lòng mọi người.
Đến đêm giao thừa, 29 tháng Chạp năm Ất Tỵ (20-1-1966) tại Thiên Lý Đàn, Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ có ban cho Thánh danh:
“LÊ VĂN BÁ thấy con chí nguyện,
Hiệp chung lo điều kiện Cơ Quan;
Dốc đem, đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.
Nay Thầy ban danh Tiên cho trẻ,
Để con hiền mát mẻ tâm trung;
Tên là CHÍ TÍN lập công,
Bước mau để kịp đại đồng thế gian.”
Ngày Cơ Quan PTGL ra mắt đại hội tại Nam Thành Thánh Thất, được nhơn sanh bầu vào Ban chấp hành đầu tiên, ngày rằm tháng hai năm Bính Ngọ (1966) với chức vụ Nội Chánh Vụ trưởng, cùng với Đạo trưởng Huệ Lương Trần văn Quế lãnh đạo với chức vụ Tổng Lý Minh Đạo và Bào Huynh Đạt Minh làm Ngoại Giao Vụ.
Dưới đây liên tiếp nhận lãnh các chức vụ trong Cơ Quan.
Nội Chánh Vụ Trưởng nhiệm kỳ đầu tiên năm Ất Tỵ 1966 và nhiệm kỳ hai năm kế 1967-1968.
Phó Tổng Thơ Ký nhiệm kỳ hai năm Kỷ Dậu và Canh Tuất (1969-1970) kiêm Tổng Thơ Ký và Tham Lý Minh Đạo cuối năm 1969 vì Đạo trưởng Minh Lý ra khỏi Cơ Quan.
Tổng thơ ký chánh thức năm Tân Hợi 1971.
Quyền Tham Lý Minh Đạo nhiệm kỳ 3 năm 1972-1973-1974.
Tham Lý Minh Đạo chánh thức nhiệm kỳ 3 năm 1975-1976-1977.
Chủ tịch Hội Đồng Nghiên cứu Giaó lý sau khi Đạo trưởng Kiến Minh ra đi vào năm 1978, một tổ chức song hành với CQPTGL.
Sau hết là Phó Tổng Lý Minh Đạo kể từ 18-2 Ất Sửu (07-4-1985) và lưu nhiệm một năm nữa của năm Bính Dần 1986 cho đúng chu kỳ 60 năm đạo Cao Đài ra mắt nhơn sanh tại Việt Nam. Phục vụ CQPTGL được hơn 21 năm, quá giai đoạn 20 năm đầu của bộ máy Đại Đạo sau cùng, lúc nào cũng dốc lòng đem hết chí thành tâm đạo khả năng công sức và tài nguyên để làm tròn trách vụ của mình nhận lãnh với thiêng liêng và nhơn sanh giao phó, không thoái chí ngã lòng, chồn chơn lùi bước trước những khảo đảo từ nội tâm đến ngoại cảnh đưa đến, đúng theo lời dạy của Đức Chí Tôn lúc ban Tiên danh Chí Tín:
"Dốc đem đem tấm can tràng,
Lập công bồi đức cho ngang bạn hiền.” [202]
Để đền ơn Thầy và chư Phật Tiên có công dìu dắt dạy dỗ, lúc nào cũng cố gắng dồi trau tính nết, tâm hạnh để xứng đáng là học trò Tiên, môn đồ của Thầy, cốt lo chánh kỷ để hóa nhơn với chí hướng đã chọn khi bước vào con đường tu học là tiên lo tự giác, hậu phải giác tha để đền ơn đáp nghĩa với Thầy và chư Phật Tiên đã có công chắt chiu dạy dỗ từ thuở còn thơ. Trong lúc hành sự nhiệm vụ Tổng thơ ký được Đức Giáo Tông nâng đỡ và âu yếm gọi là Tổng thư ký của Bần Đạo. Và khi lãnh nhiệm vụ mới là Tham Lý Minh Đạo, được Đức Giáo Tông khảo hạch trước bửu điện và toàn thể nhơn viên Cơ Quan và khấu trình dưới sự chứng kiến theo dõi của Đạo trưởng Phụ tá Bảo pháp Chơn Tâm và toàn thể nhơn viên Cơ Quan dự đàn cơ (đàn 15-2 Nhâm Tý 29-3-1972):
                         THI
“Năm trước, muốn xong bản phúc trình,
Phải nhiều tâm thức lặng thinh thinh,
Móc moi tâm não ra mà viết,
Viết tới xóa lui vẫn bực mình.
HỰU
Nay vừa xuất khẩu đã thành văn,
Mạch lạc khấu trình có lớp lang,
Bất tuyệt thao thao đầu chí cuối,
Tỏ ra tiến bộ thật vô ngần.”
Thật chúng ta phải cảm đội thâm sâu sự chắt chiu dạy dỗ từng bước, từng chi tiết hành đạo như những người anh người cha ruột thế gian với đầy đủ tình thương yêu đậm đà thấm thiết, lắm lúc quá nuông chìu chúng ta, thể hiện đức độ hạ mình của Tiên Phật trong cơ tận độ kỳ ba mà tất cả người Thiên ân sứ mạng cần phải noi theo. Ngoài ra, Ngài còn không quên nhắc nhở gởi gắm mình về công phu luyện kỷ cho Đức Đông Phương Lão Tổ (04-02-1972).
“Thấy trò em út nghĩ mà thương,
Trỗi bước từ lâu vạn dặm trường;
Sức mọn, nhưng lòng không quá mọn,
Đỡ nâng nhờ có Lão Đông Phương.”
Thật là phấn khởi vô cùng, mình thấy đã được ân huệ Thiêng Liêng dắt dìu từng bước công quả, công trình và công phu cho đầy đủ mới có thể phản bổn hoàn nguyên phục hồi cựu vị được và chính hai Đấng lãnh đạo tối cao vô vi của lưỡng đài Cửu Trùng và Hiệp Thiên trực tiếp huấn luyện cho mình được nên người môn đệ xứng đáng của các Ngài và của Thầy nữa. Nhớ có lần Thầy nhắc nhở sứ mạng của mình qua bài thi:
"Chí Tín, chí tâm chẳng đổi dời,
Nghiệp đời chừng đó dễ buông trôi;
Gay chèo Bát Nhã trên dòng nước,
Sứ mạng Tam Kỳ nhớ trẻ ôi!" [203]
Và ở một đoạn Thầy nhắc nhở thêm:
"Tâm con vốn Bửu Tòa Thầy ngự,
Hãy giúp người gìn giữ Thiên cơ;
Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ,
Công Bình, Bác ái, Từ bi đứng đầu. (…)


Đã chấp nhận con đò cứu khổ,
Lướt dòng sông quốc độ kỳ ba;
Tâm con con sẵn bửu tòa,
Ngoài tâm chẳng có chi là đâu con." [204]
Phải chăng đã đến lúc phải đem "đạo mầu công dụng mọi nơi" để "cho người thông cảm cùng người; dẹp tan sắc phái phục hồi tình thương" cho đúng tiêu đích của Cơ Quan. Và ai, lúc nào, nơi đâu? Cho nên các hàng lãnh đạo Cơ Quan được lịnh xuất gia, trước hết Đạo trưởng Quyền Tổng Lý Minh Đạo Thiện Bảo và Đạo tỷ Chủ Tịch Nữ Chung Hòa Ngọc Kiều và liền đó 5 bậc đàn anh của Cơ Quan: Chơn Tâm, Chí Tín, Đạt Minh, Chí Hùng và Chí Thuần cũng được lịnh xuất gia vào ngày 15-5 Ất Sửu (1985). Trên dòng đạo pháp cũng đã được Ơn Trên truyền giao giáo pháp đủ đầy khả dĩ thay Tôn Sư mà truyền lại đàn em. Các vị tiếp nối như đạo huynh Huệ Chơn vừa được nâng đỡ lên hàng Phụ tá Bảo pháp, Chí Thành và Thiên Vương Tinh cũng được ân huệ cho vào khóa tu Bá nhựt trúc cơ để cho đủ thần lực mà hành đạo.
Nếu chỉ dạy cho Đạo tỷ Ngọc Kiều, sau khi giải thích ý nghĩa của hai chữ XUẤT GIA của các hàng Thiên ân Cơ Quan, thì không phải là thật tế vì bịnh và hoàn cảnh của đạo tỷ làm sao thực hành lời dạy cao xa dưới đây:
“Sống đây vũ trụ là nhà,
Nghĩa là non nước, tình là vạn sanh." [205]
Cũng trên đường hướng đó, Đức Ngô Đại Tiên đã dạy Chí Tín một đàn cơ tại Minh Đức Tu Viện, sau khóa tu cho 3 vị Chí Thành, Chí Mỹ, Thanh Chơn ngày 2 tháng 10 Nhâm Tuất (16-11-1982):
"Chí Tín, hiền đệ có tâm hành đạo muốn kế tục đạo nghiệp gìn giữ Tổ Đình (tức là Tổ Đình của Chiếu Minh Cần Thơ mà Chí Tín là môn sanh đã thọ chơn truyền) và theo ý của nữ đồ MINH DĨ (là người chị cao niên và uy tín nhất của Phái Chiếu Minh hiện nay). Đó là điều Tiên Huynh rất lưu ý, nhưng đúng theo sự thật thì Tiên Huynh và hiền đệ có cùng sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ mà Thượng Đế đã phó giao. Nay Tiên Huynh, do tôn ý trước Tam Giáo Tòa, hiền đệ được về Tổ Đình Cần Thơ để cùng chung lo lễ cúng, nhưng phải hoãn việc chấp cơ, hãy dùng tâm niệm vô vi, Tiên Huynh sẽ chứng lễ và ban ơn cho toàn thể chư đệ tử nam nữ. Hiền đệ còn phải được dạy thêm trong một khóa tu Đông Chí sắp đến mới đủ thần lực thanh tịnh mà kế tục đạo nghiệp của Tiên Huynh đến hết một thời gian nhất định. Hiền đệ còn mang một sứ mạng chính thức to tát hơn. Nên lưu ý việc gì đến sẽ đến. Phần Tiên Huynh khuyên hiền đệ hãy bình tâm mà thi hành mọi việc cho đúng đạo lý thiên cơ.
Trường thi buổi chót chọn nguyên nhân,
Hoằng đạo thế Thiên định cõi trần,
Không chậu không lồng là giải thoát,
Còn danh, còn tướng ấy còn phân.
Đạo tâm ví thể Trời che chở,
Tục tánh dường như đất cắt phần,
Giải thoát chác chi dòng đối đãi,
Sạch lòng mới xứng phận Thiên ân.”
Và trong một đàn cơ riêng tại Minh Đức Tu Viện nhơn ngày kỷ niệm khai trương 25-01-1985 (Ất Sửu), Chí Tín và hiền tỷ Bạch Tuyết cầu Ơn Trên dẫn đường mở rộng lối hành đạo cho Cơ Quan theo dự tính, nhưng Ơn Trên lại không chỉ rõ hay chấp nhận đường lối đó, lại chỉ vỏn vẹn cho có một bài thi đố rồi thăng, nên chúng tôi không dám tái cầu ai nữa.
“Chắt chiu từ thuở mới nên hiền,
Gởi gắm chờ người biết hạnh duyên;
Tôn chỉ nêu cao đường tận độ,
Dư đồ vạch rõ lối qui nguyên.
Tùy tâm nguyện sẽ khơi nguồn thánh,
Do chí thành mới đạt ý Thiên,
Muốn tới Cao Đài đi mới tới,
Có chi mà phải hỏi thần tiên." (Đức Vô Vi Tiên Trưởng)
Trong một đàn cơ, rằm tháng 7 Ất Sửu (30-8-1985), Đức Bảo Pháp Huỳnh Chơn cho một bài thi để trấn an chư Thiên ân:
“Vật cùng tắc biến, biến liền thông,
Trí giả tri cơ lối đại đồng;
Pháp đạo vận hành từ thượng hạ,
Quyền Thầy chuyển hóa khắp Tây Đông.
Thiên ân hiểu rộng không nao chí,
Hướng đạo nhìn xa chẳng não lòng,
Dụng đó vẫy vùng không dấu dạng,
Tùy thời ẩn hiện tợ thần long.”
Và Đức Lý Giáo Tông tiếp theo cho một bài thi đầy đáp số:
“Tiên Ông trao sẵn bộ Thiên thơ,
Đã mấy mươi năm luống đợi chờ;
Sứ mạng thiên ân kỳ tận độ,
Xây nền Thánh đức kịp thời cơ.” [206]
V. PHẦN THỌ TRUYỀN ĐẠO PHÁP
Thọ pháp Sơ thiền cửu cửu chung với chư huynh tỷ đệ muội ở Cơ Quan, khóa đầu tiên năm Bính Ngũ (12-6-1966) tại Thiên Lý Đàn với đạo trưởng Huỳnh Chơn Bảo Pháp Chơn Quân theo Thánh lịnh của Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ. Nhưng vốn quyết tầm đạo cho thấu đáo chơn truyền của Đại Đạo Chiếu Minh, sau khi học Đại Thừa Chơn Giáo của Phái Chiếu Minh. Nhờ đạo trưởng Huệ Lương quen thân với các anh tu của phái Chiếu Minh của các đàn Long An (Anh Lộc), Long Hoa (anh Truyện) và đàn Chợ Lớn (anh Hai Quảng), tôi lần mò làm quen được thân thiết với anh Truyện vốn cùng nghề XNC trong phòng thương mãi và kỹ nghệ Saigon, nên thường được mời ăn cơm chay, tôi ngỏ ý xin keo để trước được hầu đàn của Chiếu Minh, sau thọ truyền đạo pháp. Tại đàn Long Hoa năm 1967-1968, tôi xin keo không được, các anh khuyên tiếp tục làm âm chất công quả cho đầy đủ đi, vì anh còn sứ mạng nơi cơ phổ độ, chừng đến thời giờ Thầy kêu mấy hồi. Mãi hai năm sau, tôi đến đàn anh Lộc (Long ẩn) do sự mời mọc của anh, chớ 2 năm trước anh từ chối cho rằng mình theo chưa nổi đâu. Vào xin keo cũng không được nữa (cũng do đó mà đàn cơ ở Cơ Quan Đức Ngô Đại Tiên đã cho biết lý do không nhận mình làm đệ tử). Nhưng sau thời gian quan sát mình, và biết mình thật tâm tu hành và đã có quá trình hành đạo nhờ dắt các phái đoàn Tòa Thánh, Hội Thánh đến làm lễ tại Thánh Đức Tổ Đình Cần Thơ trước đó, nên anh Lộc và anh Tiềng, vốn là cặp đồng tử của đàn, cho đặc ân quì hầu Thầy ở cuối gốc đàn, hy vọng Thầy thương tình mà kêu dạy (đây là biệt lệ của phái Chiếu Minh đó). Vì cảm trước tấm lòng chí thành cầu Đạo, nên Thầy ban ơn cho bài thi ngày 15-3 Canh Tuất (18-6-1970):
“Tòng BÁ quản gì với tuyết sương,
Nguyên căn tỉnh ngộ tránh tang thương;
Theo Thầy học đạo tìm chơn lý,
Khỏi uổng kiếp này ở cõi dương.”
Một tháng sau, hầu đàn xin keo để được Thầy ban ơn cho thọ pháp hay không thì keo cho. Theo Chiếu Minh, 100 ngày đầu phải công phu cho đầy đủ, muốn chứng minh mình được đầy đủ chưa, phải xin keo Thầy cho biết, thì ra mình xin keo Thầy không chứng minh. Điều dễ hiểu mình đang có phận sự vận động các chi phái thống nhứt nghĩa là mình mót bòn thêm công quả để xong xuôi mình qua Chiếu Minh tu luôn cho trọn phần đầy đủ quả công, trọn nghĩa thủy chung với Cơ Quan. Nhưng xin keo, Thầy không chứng minh điều này dễ hiểu vì mình tu còn thiếu sót, không đủ tứ thời hằng ngày, vì phải đi hành đạo đây đó, và các anh chị trong Chiếu Minh cũng thường quở trách hoài. Được Thầy ban ân, bài thi được truyền bá đến Tổ Đình Cần Thơ mau lẹ, và mình bị các anh chị cười, nhắc mãi bài Thầy chỉ mình để làm bài học chung cho những ai còn thiếu sót phần công phu như mình:
“Bá nhất độ (là 100 ngày) in khuôn in lối,
Một mình con hai mối sao xong;
Ai ra trả nợ đại đồng,
Ai về cố thủ đơn phòng sớm trưa.
Đã bao lúc Thầy vừa ý trẻ,
Khuyên con đừng xem rẻ qui điều;
Thương trò Thầy mới dắt dìu,
Thị phi càng lắm, càng nhiều lạc đưa.
Gương Lục Tổ ngày xưa hiển hiện,
Tay cầm chày, miệng niệm Di Đà;
Mặc người Thần Tú cao xa,
Một câu lục tự thoát qua bể trần.
Hỡi nam nữ, mẫn cần lời dạy,
Luận lý nhiều quấy phải chê bai;
Ngày đêm tưởng niệm Cao Đài,
Bớt nghe bớt thấy, bớt hoài mới nên.
Muốn thành Đạo phải bền chí cả,
Muốn đăng tiên tâm hỏa diệt tiêu;
Đơn phòng đừng để quạnh hiu,
Khách trần lần dứt, sớm chiều tầm nguyên.”
(Đàn Long Ẩn, 07-10-1972)
Sau đó, rán công phu thêm cho đầy đủ và xin keo thì Thầy chứng bá nhật liền và chánh thức được lên nhất bộ. Theo nguyên tắc, nếu tu đúng 3 năm 8 tháng, liệu xét mình đầy đủ thì xin keo để Thầy chứng minh lên Nhị Bộ, nhưng không dám xin keo, để chừng nào Thầy ban ơn thì Thầy cho như có vài trường hợp của các huynh trưởng được Thầy ban ơn.
Mãi đến hôm đàn kỷ niệm ngày Thầy thoát xác 13-3 Ất Mão (24-4-1975) thay vì đi về làm lễ lớn tại Tổ Đình Cần Thơ như thường lệ, nhưng vì tình hình lúc này găng quá, nên làm lễ tại Saigon. Được Thầy ban ơn như sau:
“Hữu chí thiền ngộ đặng pháp minh,
Căn cơ hoài bão hướng Kim Đình;
Tứ ân Nhị Bộ cho tròn vẹn,
Mối Đạo Trời Cha gắng giữ gìn.”
Và Thầy dạy tập chấp bút để thay thế anh Tiềng già yếu hay bịnh hoạn.
Ở CQPTGL được Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ truyền trao nhiều pháp môn như: Pháp Ngoại Công phu thể dục gọi là Thập Nhị cẩm Đoạn, trong đó có trùng nhiều tư thế công phu của Chiếu Minh, các khẩu quyết Sơ cơ, Nhị cơ, Tam muội chánh định. Pháp môn luyện âm dương ngũ hành để diệt ngũ âm trừ ngũ tặc, luyện tan thất tình lục dục cho tâm được thanh tịnh mà bước vào trúc cơ có hiệu năng hơn. Đặc biệt trong thời kỳ hạ nguơn mạt kiếp này hành giả gặp nhiều khó khăn.
Được Đức Lão Tổ và sư phụ Ngô Đại Tiên dạy truyền pháp Chiếu Minh cho nên xin ở Cơ Quan nếu có đủ điều kiện trường chay tuyệt dục và quyết tâm cầu tu giải thoát đốt cháy hết que trầm (thay cho việc đốt hồng thệ trong Chiếu Minh) lập đại nguyện trước Tam Giáo Tòa, nếu khinh thường đạo pháp, khi trọng tội cũng bị tam đồ bất năng thoát tục không khác gì lời thệ ở Chiếu Minh, mục đích để dung hợp pháp môn gọi là tân pháp Cao Đài (pháp môn bất nhị mới thiệt là con đò trời).
Được thu nhận vào khóa Trúc cơ đầu tiên của Cơ Quan năm Mậu Ngọ (1978), sau đó được tiếp tục thọ pháp thập ngoạt hoài thai (300 ngày) và điều ngộ nghĩnh thay làm cho mình vững lòng tin thêm duyên lành chính Sư phụ mình là Đức Ngô Đại Tiên được lịnh Tam Giáo Tòa truyền chánh pháp tu luyện nội đơn trực tiếp với Đạo trưởng Bạch Lương Ngọc trụ trì Vĩnh Nguyên Tự Cần Giuộc tại Minh Đức Tu Viện vào ngày mùng 06-7 Nhâm Tuất (24-8-1982).
Với những lời tự thuật này, kính mong chư hiền huynh hiền tỷ và chư đệ muội nghiên cứu suy nghiệm để làm bài học cho bản thân hầu tiến trổi hơn tệ đệ đã mất nhiều thời gian hơn trước đó. Cầu xin Đức Tôn Sư và Sư phụ chứng lòng thành tri ân sâu xa của đệ tử và xin nguyện để hết lòng chơn thành truyền trao đạo pháp cho những ai có căn lành và được nhị vị chứng giám dạy bảo để không mang trọng tội khinh truyền đạo pháp


[202] Thiên Lý Đàn, 29-12 Ất Tỵ, 20-01-1966.
[203] CQPTGLĐĐ, 15-01 Nhâm Tý, 29-02-1972.
[204] CQPTGLĐĐ, 15-10 Quí Sửu, 09-11-1973.
[205] CQPTGLĐĐ, 06-3 Giáp Tý, 06-4-1984.
[206] CQPTGLĐĐ, 15-7 Ất Sửu, 30-8-1985.


http://www.caodaism.net/thuvien/viewstory.php?sid=1356&warning=6


Nguồn: CHÍ TÍN (LÊ VĂN BÁ)
Share:
Được tạo bởi Blogger.

Tìm kiếm Blog này

ĐẠI ĐẠO LUẬN: ĂN CHAY

 ĐẠI ĐẠO LUẬN: ĂN CHAY      Tác giả:Đạo Trưởng Thiên Huyền Minh.      Người đời nhứt là các nhà thông minh đều cho đồ chay không bổ bằng đồ ...

chuyển đổi